Tìm hiểu về miền Bắc giải phóng năm nào?

Trong lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng năm dựng nước và giữ nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt là cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ vô cùng ác liệt. Vậy miền Bắc giải phóng năm nào?

Nội dung tóm tắt

Miền Bắc giải phóng năm nào?

Miền Bắc giải phóng năm nào? Sự kiện đánh dấu miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng là toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà vào ngày 16/5/1955.

Bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Pháp chính là thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới Thu Đông năm 1950. Đây là một chiến dịch mang tầm chiến lược quan trọng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước.

Chiến dịch Biên Giới với quy mô lớn đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Chiến dịch này do Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức, chỉ huy; đặc biệt Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy.

Đây cũng là chiến dịch duy nhất mà đích thân Chủ tịch nước – Hồ Chí Minh ra mặt trận và trực tiếp chỉ đạo. Trải qua 29 ngày đêm (16/9 –  14/10/1950) chiến đấu vô cùng quyết liệt, dũng cảm và mưu trí của quân và dân ta, Chiến dịch tiến công Biên Giới Thu – Đông đã giành được thắng lợi vang dội.

miền Bắc giải phóng năm nàoTìm hiểu về miền Bắc giải phóng năm nào?

Xem thêm: Miền Bắc có bao nhiêu tỉnh?

Tình hình nước ta sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 

Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương được ký kết chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với ba nước Việt Nam – Campuchia – Lào.

Theo Hiệp định, quân đội hai bên phải ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực. Những điều khoản này sẽ được hai bên thực hiện trong thời gian 300 ngày: Pháp rút khỏi Hà Nội ngày 10/10/1954 và rút khỏi miền Bắc giữa tháng 5/1955. Tuy nhiên, hội nghị hiệp thương giữa hai miền Bắc và Nam để tổ chức Tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước chưa được tiến hành.

Sau khi Pháp rút khỏi miền Nam, đế quốc Mĩ liền nhảy vào và đưa bọn tay sai với người đứng đầu là Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ở miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam làm hai miền. Đồng thời biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 – 1975)

Từ năm 1954, sau khi hòa bình được tạo lập lại trên miền Bắc, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc bắt đầu thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội; còn miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền Sài Gòn

Hoàn thành cải cách ruộng đất

Qua 5 đợt cải cách ruộng đất (tiến hành từ cuối năm 1953 – 1956), có khoảng 81 vạn hecta ruộng đất, 1,8 triệu nông cụ, 10 vạn trâu bò lấy từ tay giai cấp địa chủ chia cho hơn 2 triệu hộ nông dân. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đổ. Đồng thời giai cấp nông dân được giải phóng và trở thành người chủ ở nông thôn.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất đã phạm một số sai lầm như đấu tố cả những địa chủ kháng chiến, những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng; cũng như quy nhầm một số nông dân, bộ đội, cán bộ, đảng viên thành địa chủ.

Sai lầm trong cải cách ruộng đất được Đảng và Chính phủ phát hiện và có chủ trương, biện pháp sửa sai, khắc phục ngay khi kết thúc cải cách. Nhờ đó hậu quả được hạn chế và ý nghĩa của cải cách vẫn hết sức to lớn.

Sau cải cách ruộng đất, bộ mặt nông thôn miền Bắc đã thay đổi cơ bản, khối công nông liên minh được củng cố và giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đổ. Thắng lợi của cải cách ruộng đất góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

miền Bắc giải phóng năm nàoTìm hiểu về miền Bắc giải phóng năm nào?

Xem thêm: Miền Bắc có trồng được sầu riêng không?

Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh

Về nông nghiệp: Nông dân hăng hái khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, cày cấy ruộng đất vắng chủ, sắm thêm nông cụ và tăng thêm đàn trâu bò. Nhiều đập nước (như Bái Thượng ở Thanh Hóa, Thác Huống ở Thái Nguyên, Đô Lương ở Nghệ An…) và đê điều bị địch phá đã được sửa chữa. Đến cuối năm 1957, sản lượng nông nghiệp tăng vượt mức trước Chiến tranh thế giới thứ hai và nạn đói có tính chất kinh niên được giải quyết về cơ bản.

Về công nghiệp: Giai cấp công nhân với tinh thần dựa vào sức mình là chính đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp quan trọng như mỏ than Hòn Gai, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy điện Hà Nội…; xây dựng thêm nhiều nhà máy như nhà máy cơ khí Hà Nội, cá hộp Hải Phòng, gỗ Cầu Đuống, diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long, chè Phú Thọ… Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lý.

Về thương nghiệp: Hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán được mở rộng, đã cung cấp nhiều mặt hàng cho nhân dân; hoạt động ngoại thương dần dần tập trung vào tay Nhà nước và giao lưu hàng hóa giữa các địa phương ngày càng phát triển. Đến cuối năm 1957, miền Bắc đặt quan hệ buôn bán với 27 nước.

Về thủ công nghiệp: Có nhiều mặt hàng tiêu dùng được sản xuất thêm, bảo đảm nhu cầu tối thiểu của đời sống, giải quyết phần nào việc làm cho người lao động. Đến năm 1957, số thợ thủ công miền Bắc tăng gấp hai lần so với trước Chiến tranh thế giới thứ hai.

Về giao thông vận tải: Gần 700 km đường sắt bị phá được khôi phục; sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ô tô; xây dựng lại và mở rộng thêm nhiều bến cảng như Hải Phòng, Cẩm Phả, Hòn Gai, Bến Thủy. Thêm vào đó, đường hàng không dân dụng quốc tế được khai thông.

Hy vọng những thông tin trong bài viết đã giúp bạn đọc giải đáp thắc mắc miền Bắc giải phóng năm nào và nắm được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Rate this post